Phân tích và quan trắc môi trường Với thiết bị hiện đại, đồng bộ và đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, được đào tạo trong và ngoài nước, đến nay Trung tâm Phân tích & Công nghệ Môi trường có thể thực hiện đo đạc, phân tích nhiều thành phần môi trường: + Các mẫu lỏng (nước thải, nước cấp). + Các mẫu bùn, đất. + Các mẫu chất thải rắn. Phân tích hình tượng nhân vật Mị Trong truyện Vợ chồng A Phủ Bài làm Văn chương là chất nhuỵ của cuộc sống. Mỗi tác phẩm không chỉ là một thứ công cụ hiểu biết, khám phá và sáng tạo thực tại xã hội mà còn như một thứ khí giới thanh cao và đắc lực để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối, tàn ác làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn. Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, người đọc dễ dàng nhận ra tâm trạng lo sợ này của Mị khi giải cứu cho A Phủ. Là cô gái khát khao sống mãnh liệt, mong ước tự do và mơ ước hạnh phúc nên nàng không thể chấp nhận cúi đầu chờ chết ở nơi địa ngục trần gian này. Mị đã cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài ngay trong đêm tình mùa xuân ấy. 2. Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ - Giới thiệu sơ lược về A Phủ: một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nàh thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia. 1. Hoàn cảnh đã run rủi Mị cứu A Phủ, cùng lúc giải thoát mình khỏi cuộc sống nô lệ: - Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị chưa có sự suy nghĩ nào, Nhưng mấy đêm sau, khi Mị thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Vay Tiền Nhanh. Hướng dẫn Đề bài Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài. *** » Xem lại phần hướng dẫn Soạn bài Vợ chồng A Phủ Tô Hoài Tổng hợp 3 bài văn mẫu hay phân tích nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ Bài mẫu số 1 “Đất nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” Tô Hoài. Là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạch được sau chuyến đi bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài tám tháng, tập truyện “Truyện Tây Bắc” là nỗi nhớ niềm thương bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ. Là truyện ngắn đặc sắc hơn cả của tập truyện, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, tủi nhục và sức mạnh vùng lên vươn tới chân trời tự do hạnh phúc của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Giá trị của tác phẩm được kết tinh ở hình tượng nhân vật Mị. Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức mạnh phục sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hồi sinh của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hồi sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm đông Mị cắt dây trói cứu A Phủ đầy éo le, kịch tính. A Phủ là chàng trai nghèo khổ cả cha lẫn mẹ, vì đánh A Sử, A Phủ bị bắt phạt vạ trở thành đứa ở trừ nợ của nhà thống lí Pá tra, cùng chung thân phận nô lệ trâu ngựa với Mị. Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ ăn mấy ngày liền giữa mùa đông giá rét. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay. Đã mấy lần rồi, mỗi khi dậy thổi lửa hơ tay, Mị lại thấy cảnh A Phủ bị trói nhưng Mị vẫn thản nhiên dửng dưng thờ ơ. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Quá quen với cái tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra, tâm hồn Mị tê dại đến vô cảm. Và tâm hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ. Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị bỗng bắt gặp dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má tuyệt vọng của A Phủ – một chàng trai vốn can trường dũng cảm. Nước mắt gọi nước mắt Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Niềm đồng cảm trỗi dậy, thương thân bao nhiêu, Mị thương A Phủ bấy nhiêu. Thương mình, thương A Phủ, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí Pá Tra. “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác.”. Lần đầu tiên, sau bao năm tháng câm lặng, Mị dõng dạc cất lên lời kết án đanh thép cha con thống lí. Mị như lột xác, trở lại làm cô gái dũng cảm, khát khao tự do, sục sôi tinh thần phản kháng. Rồi Mị nghĩ đến tình cảnh nguy khốn đang ập đến với A Phủ “cỡ chừng này, chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia thì việc gì mà phải chết thế?”. A Phủ sẽ phải chết, chết oan uổng, vô lí. Nghĩ đến điều ấy, trái tim Mị như thắt lại, cõi lòng nhói đau. “A Phủ” tiếng gọi buông ra hay tiếng nấc nghẹn ngào xót xa. Rồi Mị miên man nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tưởng có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã chốn được, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho A Phủ, Mị liền phải trói thay, phải chết trên cái cọc này. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ. Tình thương người ngày càng mạnh, nó lớn hơn niềm thương thân và giúp Mị chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, nó thôi thúc Mị hành động một cách táo bạo cắt dây trói cứu A Phủ. Bài mẫu số 2 Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã dành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “Truyện Tây Bắc” 1953 của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc 1952, Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến… Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống. Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài. Truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp độc giả cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp chúng ta ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”. Bài mẫu số 3 Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó trăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc Vợ chồng A Phủ, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thống lí Pá Tra. Câu chuyện về Mị, được bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra, thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rượi”, chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự việc đã hiện lên khá nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để độc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng. Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – “nghèo từ trong trứng”; cô trẻ giàu lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị còn là một cô gái chăm chỉ, một đứa con hiếu thảo… Nhưng, một thứ “nợ gia truyền” của người nghèo, cô phải “đi tù khổ sai” trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu gạt nợ. Biết bao thân phận người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như bởi hình thức cho vay nặng lãi. Thời gian đầu, khi mới ở “nhà tù Pá Tra”. Mị đau đớn, uất ức, phản kháng quyết liệt. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không thể chấp nhận làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã thành định mệnh, nàng Kiều của Nguyễn Du, trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng một lần nghĩ đến quyên sinh, mà cũng không thoát khỏi kiếp đoạ đày 15 năm đây, Mị còn khổ hơn, bởi món nợ vẫn còn đây, đổ lên đầu bố già. Ở địa ngục trần gian nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhọc nhất đổ lên đầu. Mấy năm sau khi bố qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng như minh cũng là con trâu, con ngựa … biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đời Mị chí là công việc nối tiếp nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại tết xong thì hái thuốc phiện, năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa thì bẻ bắp… thêm vào sự đoạ đày thể xác ấy còn là ách áp chế về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần” như lời Mác nói. Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự mình coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa trong xó chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”. Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khái khao làm chủ cuộc sống tính cách ấy, phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị đè nén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình mùa xuân về trên vùng cao “Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Dẫu trong thời tiết khắc nghiệt, mùa xuân về cũng đem đến cho người dân vùng cao một niềm vui sống, được sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm đá, xoè ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà…”Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của giai cấp thống trị, mà còn ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớp tro dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần ngọn gió thoáng qua là bùng lên. Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thống nhân đạo trong nền văn học dân tộc một tiếng nói có quyền năng và sức tái tạo riêng. Hoàn cảnh ấy không thể tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố “ngoại của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi…”. Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, khát vọng ham sống. Trong không khí ấy Mị lại được kích động bởi men rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng …, còn Mị thì đang sống về ngày trước”. Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian” lâu nay của mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt “Mị thấy phơi phới trở lại”. Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho hết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa…” ý nghĩ về cái chết lúc này, là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh. Trong khi ấy, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài lơ lửng bay ngoài đường, đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong rập rờn trong đầu. Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng”. Hành động này có ý nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo. A Sử bước vào, thản nhiên xách ra một thúng sợi đay, trói đứng Mị vào cột nhà. Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn như sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngoài kia. Mị như quên mình đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khát khao cuộc sống mãnh liệt, Mị đã “vùng bước đi”. Như thực tế phũ phàng là vòng dây trói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan. “Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách … Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”- thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật. Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảm u mê của Mị có phần trầm trọng. Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn, cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đây, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi lên cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp nhiều lần trong một đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế. Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, “ngọn lửa bập bừng sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai gò má đã xám đen lại”. Chao ôi! nước mắt. Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được; Mị lại nhớ đến người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này, trí nhớ của Mị lại loé lên cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền, nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình lấy con dao nhỏ cắt cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Mị nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội? Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu chặt chẽ Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi”. Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức Nhận thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu liên của tuyên ngôn các Đảng cộng sản F. Ăng ghen từng khẳng định “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ.” ——————————————————————– » Tham khảo thêm Theo Topics A Phủ bản thân Bếp lửa con bò con ngựa con người con trâu cuộc sống Đời Thừa hành động hạnh phúc khát vọng kỉ niệm lời nói mùa đông mùa xuân nam cao nguyễn du nhà văn Tô Hoài nhẫn nhục Nhân vật Mị phân tích Phân tích nhân vật Mị suy nghĩ thanh niên thời gian tình yêu tô hoài Tuổi trẻ tưởng tượng ước mơ uống rượu văn học văn miêu tả Vô cảm vợ chồng a phủ Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con Tàu Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên Tây Bắc từ lâu đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ thuật, bởi nơi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các nhà văn, nhà thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn Huy Tưởng đã có cho mình cuốn tiểu thuyết "Bốn năm sau", Nguyễn Tuân ghi dấu ấn với tập tùy bút "SĐ", Nguyễn Khải viết nên "Mùa lạc" thì Tô Hoài lại đưa tên tuổi mình lên một tầm cao mới với tập "Truyện Tây Bắc", trong đó tiêu biểu nhất là truyện ngắn VCAP. Thưởng thức tác phẩm, người đọc không khỏi ấn tượng với tâm hồn tự do, khao khát hạnh phúc của người lao động nơi đây. Vẻ đẹp ấy đã được Tô Hoài thể hiện thật tinh tế và cảm động thông qua nhân vật Mị, đặc biệt là ở đoạn trích Mị trong đêm đông cứu A Phủ. Tô Hoài là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc ở cái nhìn hồn nhiên mà sắc sảo, cách kể chuyện sống động, hóm hỉnh cùng những giá trị hiện thực và nhân đạo mới mẻ. Năm 1952, Tô Hoài theo đơn vị bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, sống gắn bó với đồng bào 8 tháng. Khi chia tay, Tô Hoài viết tập "Truyện Tây Bắc" 1953 bằng sự am hiểu tường tận cuộc sống, phong tục, nhất là tâm hồn phóng khoáng, tự do phảng chút hoang dại của đồng bằng miền núi cùng nỗi ám ảnh về những kỉ niệm gắn bó và món nợ ân tình với người Tây Bắc. "Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn thành công nhất của Tô Hoài ở mảng đề tài về người lao động Tây Bắc, khắc họa chân thực cuộc sống tăm tối của họ và con đường vùng lên phản kháng khỏi sự áp bức, đày đọa của bọn thực dân, chúa đất. Mị là nhân vật trung tâm của truyện, là một cô gái người Mèo xinh đẹp, trẻ trung, có tài thổi lá, thổi sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai. Mị cũng là một người hiếu thảo, chịu khó, yêu lao động, khao khát tự do và luôn ý thức được quyền sống của mình. Sau khi về làm con dâu gạt nợ nhà Thống Lí, Mị bị bóc lột sức lao động, bị áp chế bởi cường quyền và thần quyền, bị ngược đãi bởi người chồng vũ phu. Từ một cô gái hồn nhiên, hạnh phúc, Mị trở thành người đàn bà chai sạn và vô cảm. Nhưng sự thống khổ ấy không thể dập tắt được sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong con người Mị. Trong đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị đã có một cuộc vượt thoát về tâm hồn, dù đã bị trói vào cột nhà nhưng tâm trí vẫn đưa theo những đám chơi. Tuy đó chỉ là hành động bộc phát, trong những khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng sức sống tiềm tàng mãnh liệt đã báo hiệu cho sự bừng tỉnh về nhận thức và cháy bùng lên ngọn lửa tự do để giải thoát cho mình và người cùng cảnh ngộ. Nếu chỉ dừng lại ở đêm tình mùa xuân thì cũng chỉ giống như một đợt sóng, dâng lên rồi lại tan ra, sức sống tiềm tàng, âm ỉ trong Mị vẫn bị một lớp tro tàn phủ mờ lên đó. Và rồi đêm đông cứu A Phủ đã đến như một luồng gió để thổi bùng lên sức sống ấy, cũng như làm trỗi dậy lớp sóng ngầm của sự phản kháng vẫn luôn hiện diện bấy lâu ở Mị. Đoạn trích nằm ở nửa sau tác phẩm, miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ.​ Lúc đầu, Mị hiện lên với hình ảnh một con người trong trạng thái tê liệt tinh thần, tâm hồn vô cảm, chai sạn, băng giá. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay, còn A Phủ thì bị trói đứng chờ chết. Ban đầu, mỗi khi thấy cảnh đó, Mị vẫn dửng dưng, rằng dù A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Sự thờ ơ đó, phải chăng là vì người chết ở nhà thống lý đã chẳng phải chuyện lạ, hay vì Mị đã "ở lâu với cái khổ" nên đã chai lì cảm xúc? Để rồi ngay cả nỗi đau của mình, Mị cũng vô cảm thờ ơ, huống gì là bận lòng vì nỗi đau của người khác. Bởi lẽ, nếu còn ý thức, còn cảm giác chắc Mị đã sợ đòn roi của A Phủ, đã không chai lì tiếp tục ra sưởi lửa vào những đêm sau. Các từ ngữ "thản nhiên", "cũng thế thôi" cho thấy sự vô cảm đến tàn nhẫn của Mị, Mị không gợn một chút xót xa nào. Mị không quan tâm bất cứ điều gì ngoài ngọn lửa mỗi đêm vẫn thao thức bên Mị, dường như ngọn lửa với Mị là để bầu bạn và sưởi ấm phần nào sự cô đơn, nguội lạnh trong tâm hồn. Đắng cay thay cho Mị, một cô gái đã đánh mất luôn cả tình thương, lòng nhân ái. Đó là chứng tích của ách áp bức nặng nề, dai dẳng và đầy đau đớn, và cũng là sự lên án của nhà văn đối với những thế lực cường quyền, thần quyền đã đẩy con người vào trạng thái tê liệt ý thức. Từ vô cảm, dửng dưng, Mị đã được dòng nước mắt của A phủ đánh thức rồi trở nên đồng cảm với số phận của người cùng cảnh ngộ. Đối với A Phủ, một người đàn ông vốn mạnh mẽ, gan góc, một người chẳng e dè mà thẳng tay trừng trị con quan, thì những giọt lệ ấy chính là nỗi tuyệt vọng không thể nói ra bằng lời. Hình ảnh "Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" đã làm hiện hữu một cách chân thực nỗi thống khổ, sự đau đớn và bất lực tột cùng của một kẻ đang hấp hối, của một thân phận nô lệ đang tủi nhục trước số phận. Dòng nước mắt ấy không chỉ chảy xuống đôi gò má "đã xám đen" của A Phủ mà còn chảy vào trái tim băng giá của Mị, tác động trực tiếp đến mảnh hồn tưởng chừng như đã khô héo, lặng câm trước cuộc đời. Từ cõi quên trở về cõi nhớ, nước mắt của A Phủ và cảnh tượng bị trói đứng thế kia đã thức dậy trong Mị kí ức hãi hùng, rằng Mị cũng từng bị ngược đãi, cũng từng trải qua cái tủi nhục như thế, khi mà nước mắt "chảy xuống miệng xuống cổ không biết lau đi được". "Trông người lại ngẫm đến mình", trái tim Mị quặn đau. Nhà văn không nói đến nỗi đau đớn về thể xác của Mị, không nói ra nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng từ điểm nhìn của Mị, người đọc đã thấm thía được điều ấy. Mị cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Sự đồng cảnh đã dẫn dắt trái tim đến với những sự đồng cảm đầu tiên. Nhà giáo Đỗ Kim Hồi cho rằng, "Nước mắt A Phủ đúng là một chi tiết đã nâng tầm Tô Hoài". Thật vậy, dòng nước mắt đã nối số phận của hai con người lại với nhau, trước là chứa đựng nỗi tủi nhục không thể nói hết của A Phủ, sau là kéo Mị ra khỏi sự tê liệt cảm xúc. Quả là một chi tiết nhỏ nhưng lại mang trong mình sức chứa lớn lao. Đó hẳn phải là kết quả của một tấm lòng trăn trở trước những số phận bị đày ải và tài năng, tâm huyết của nhà văn Tô Hoài. Có được sự đồng cảm trong trái tim cũng là lúc Mị nhận thức được sâu sắc nỗi tủi nhục của mình và A Phủ cũng như tội ác tày trời của giai cấp thống trị mà đại diện là cha con thống lý Pá Tra. Câu độc thoại nội tâm đã phản ánh cảm xúc mãnh liệt của Mị "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này". Câu văn sử dụng phép điệp cấu trúc, nhịp điệu dồn dập, sắc thái như tiếng kêu thấu trời xanh. Đoạn văn lặp lại đến 9 lần động từ "chết", thêm một lần từ "rũ xương", nhất là phép điệp tăng cấp "Chết đau, chết đói, chết rét, phải chết." Mỗi lần từ "chết" được điệp lại dường như lòng thương A Phủ và lòng căm phẫn tội ác cha con nhà thống lý trong Mị càng nhân lên gấp bội, để rồi sau đó, như một phản ứng dây chuyền, nối ại ba số phận Nghĩ đến cái chết oan nghiệt của người đàn bà ngày trước, đến cảnh mình bị trói, cảnh A Phủ sắp phải chết. Mị nhận ra giá trị của con người bị chà đạp đến thê thảm, nhận ra nỗi thống khổ tột cùng của những số phận bị đày ải. Để rồi Mị hiểu ra sự tàn độc, phi lý của giai cấp thống trị "Chúng nó thật độc ác". Đó là sự bừng tỉnh, sự nhận thức đầy lý trí chứ không dừng lại ở cảm xúc đơn thuần. Mị độc thoại với chính mình "Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi.. Người kia việc gì phải chết?" Nghĩ đến một A Phủ đang bị đẩy đến bờ vực của cái chết, Mị thấy phi lý đến mức không thể chấp nhận. Hai tiếng "A Phủ" lần đầu tiên ngân lên trong lòng Mị, nhè nhẹ, phảng phất một hơi thở của tình thương. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng phần sống của mình cho A Phủ, đó là sự thức dậy của lòng nhân ái giữa những con người đồng cảnh ngộ và cũng là điểm tựa cho những hành động táo bạo của Mị về sau. Lòng trắc ẩn, tình thương giai cấp đã đưa Mị đến với ý nghĩ giải thoát cho A Phủ. Trước khi cởi trói, diễn biến tâm lý của Mị rất phức tạp "Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình." Tưởng chừng như chỉ là một chi tiết bâng quơ nhưng lại chứa đựng nhiều ẩn ý. Đám than đã "vạc hẳn lửa" khiến bóng tối tràn ngập không gian. Ngọn lửa vật lí, ánh sáng tự nhiên vụt tắt, ẩn mình khuất lấp trong những tàn than. Nó nhường bước cho ngọn lửa mới, đó là lửa hồng tâm hồn, ngọn lửa của lòng người – thứ lửa nhân văn, bền bỉ và cháy sáng nhất. Đám than tàn cũng là lúc ngọn lửa trong Mị bừng cháy, soi rõ quá khứ đời Mị, khiến "Mị nhớ lại dợi mình", chợt nhận ra đời mình chỉ thấy toàn khổ đau, bất công, ngang trái Bị bóc lột sức lao động, bị ngược đãi bởi người chồng vũ phu, bị cầm tù tinh thần bởi thần quyền. Đời Mị có thể sẽ chết rũ xương ở đây, nhưng A Phủ thì không phải thế. Từ cuộc đời dài dằng dặc những đau khổ của mình, nghĩ tới A Phủ, Mị tưởng tượng rằng "Như có thể một lúc nào, biết đau A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào, Mị phải chết trên cái cọc ấy." Hai hình ảnh song hành diễn ra trong tưởng tượng của Mị Cảnh A Phủ đã trốn thoát và cả cái chết của mình sẽ đến ngay sau đó. Nhưng mị không sợ, đối với Mị bây giờ cái chết không còn là điều gì ghê gớm nữa. Điều gì đã khiến mị không sợ hãi? Đó phải chăng là lúc lòng thương người đã chiến thắng mọi nỗi sợ cường quyền và thần quyền? Tình thương giai cấp đã lớn hơn nỗi sợ trong lòng Mị, cởi trói cho A Phủ cũng chính là cách để Mị cởi bỏ nút thắt trong lòng. Đó là biểu hiện cao nhất của sự thức tỉnh, là hành động táo bạo, bất ngờ, nhưng vô cùng hợp lý, vốn đã luôn nằm trong sức sống nội tại của nhân vật. Hành động cắt dây trói cho A Phủ và vùng chạy theo của Mị là biểu hiện cao nhất của sức sống, sức phản kháng mãnh liệt. "Mị lấy con dao chẫu nhỏ, cắt từng nút dây mây". Hành động nhanh, gọn chứng tỏ nó đã được thúc đẩy bởi rất nhiều tâm trạng Lòng thương người và sự căm phẫn đến tột cùng tội ác của cha con nhà thống lý. Đây là hành động bản năng nhưng là lẽ tất yếu. Bởi thế, sau hành động dứt khoát ấy là tâm lý "hốt hoảng", "nghẹn lại" đầy chơi vơi. Hành động của mỗi con người đều là sự cấu thành từ những cảm xúc, tâm lý đan xen cùng lúc, dù cho việc làm ấy có là bột phát. Vậy mới thấy, từng gấp khúc dù là nhỏ nhất trong tâm trạng Mị đã được Tô Hoài diễn tả thật thuyết phục và cảm động. "Mị đứng lặng trong bóng tối". Câu văn ngắn, tách thành một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Tuy ngắn về câu chữ nhưng ẩn sau đó là cả một cuộc đấu tranh nội tâm đầy dữ dội của Mị Sống hay chết? Đi hay ở? Nô lệ hay tự do? Cuối cùng, tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị. Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy, lòng ham sống mãnh liệt đã trỗi dậy và thúc giục Mị chạy theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị với toàn những động từ mạnh "Vụt chạy", "băng đi", "đuổi kịp", "lăn", "chạy xuống", "nói", "thở". Đó là khoảnh khắc mà nội lực và sức phản kháng của Mị đã cháy bụng lên mạnh mẽ. "Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai" Lỗ Tấn. Thật vậy, nếu đêm tình mùa xuân là "tia lửa nhỏ" thì hành động chạy theo A Phủ của Mị đã thực sự trở thành "đám cháy". Bước chân ấy không còn là bước chân của con rùa, con trâu, con ngựa nữa mà là bước chân đầy mạnh mẽ, cứng cỏi, quật cường vùng lên để đi tìm ánh sáng tự do. Đến đây, ta chợt nhớ tới lời thơ Tố Hữu "Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp" Khoảnh khắc Mị vụt chạy theo A Phủ để tìm đường sống cũng có thể ví như một khoảnh khắc ngắn ngủi về thời gian vật lí nhưng vô tận về ý nghĩa nhân sinh bởi nó chứa đựng sự dồn nén của cảm xúc, sự thức bừng tỉnh của hồn người, chất chứa bao suy ngẫm về sức sống tiềm tàng của con người cũng như hành trình vùng lên chống lại cái tàn nhẫn, bất công để tìm đến sự tự do của người lao động. Khoảnh khắc ấy đã hé mở biết bao nhiêu cảm xúc trong lòng bạn đọc và cũng là biểu hiện cho chiều sâu nhân đạo của ngòi bút Tô Hoài. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn chọn đêm đông là thời điểm Mị và A Phủ chạy thoát khỏi Hồng Ngài, bởi lẽ đó là ấn dụ cho sự khép lại của một quá khứ tăm tối, lạnh lẽo, mịt mờ, hứa hẹn một ngày xuân tự do, hạnh phúc trong tương lai. Thực chất, đây cũng chính là quá trình mà Mị được soi sáng, từ chỗ nhận thức được sự lạnh lùng, tàn bạo của xã hội, nhận thức được sự bất công, phi lý sắp giết chết một con người vô tội, Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đi sự trói buộc giữa cô với sự đày ải nặng nề ở nhà thống Lý, điều ấy hoàn toàn đúng với lý luận cũng như thực tiễn thời đại. Các Mác từng nói, "Nơi nào có áp bức, nơi đó có đấu tranh", hay như dòng đầu liên của tuyên ngôn các Đảng cộng sản, F. Ăng ghen cũng đã khẳng định "Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ." Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm đông cứu A Phủ đã góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm. Từ cuộc đời Mị, nhà văn muốn khẳng định một chân lý, rằng bạo lực không thể hủy diệt khát vọng của con người, đồng thời lên án đanh thép chế độ cường quyền, thần quyền đã chà đạp con người đến tê liệt sức sống, biến họ thành kiếp nô lệ. Qua nhân vật Mị, ta đã thấy được ở số phận khổ đau ấy một sức sống tiềm tàng, từ đó cảm nhận được chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút Tô Hoài, vừa cảm thông cho kiếp người khổ cực, vừa ngợi ca lòng ham sống, khát vọng tự do, niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Đến đây, cái nhìn nhân đạo đã được nâng lên một tâm cao mới, khi mà ở các tác phẩm trước Cách mạng như Tắt đèn, Chi Phèo, người nông dân cũng rơi vào đường cùng, và rồi nhận lấy một kết cục hết sức tối tăm, nhưng với VCAP, khi ánh sáng của Đảng, của cách mạng soi rọi, khơi dậy ở họ ý thức thời đại, nhà văn đã nhìn thấy khả năng vùng dậy của những người lao động bị đày ải, đưa họ đến cuộc đời tự do. Đây chính là sự kế thừa những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, đồng thời khắc phục nhược điểm của chủ nghĩa hiện thực phê phán của những năm 1930 – 1945, văn học 1945 - 1975 bắt đầu thấy được khả năng đấu tranh tiềm tàng của con người, đã nhận thức được quy luật phát triển tất yếu của lịch sử. Không chỉ đặc sắc về nội dung tư tưởng mà đoạn văn còn là một thành công ở phương diện nghệ thuật. Tô Hoài đã đặt nhân vật này vào một hoàn cảnh đặc biệt đầy kịch tính, thúc đẩy sự vùng lên ở Mị. Cách kể chuyện hấp dẫn, giọng điệu biến đổi linh hoạt, nhịp kể chậm rãi, sẻ chia, giọng kể trầm lắng đong đầy cảm xúc thể hiện tình cảm yêu thương của tác giả với nhân vật. Ngoài ra, ngôn ngữ trần thuật đa dạng, sinh động, chọn lọc, với các lớp từ thông tục, lối văn giàu tính tạo hình, vận dụng cách nói hồn nhiên, mang đập màu sắc dân tộc, phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của người miền núi. Nhưng đáng chú ý vẫn là nghệ thuật miêu tả tâm lý, vừa khách quan, trung thực, lại vừa kết hợp khéo léo với cách nhìn bên trong của nhân vật, diễn tả đặc sắc những gấp khúc mơ hồ, những thăng trầm cảm xúc, sử dụng độc thoại nội tâm.. làm nên một dòng tâm trạng đầy kịch tính và không kém phần thuyết phục ở Mị. Như vậy, đoạn trích là một áng văn thần tình, đầy cảm xúc về sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của Mị trong đêm đông cứu A Phủ. Câu chuyện khép lại, nhưng trong lòng người đọc được hé mở những cảm xúc đặc biệt khi chứng kiến con đường vùng lên của những người lao động dưới ách thống trị. Đem đến cái nhìn nhân đạo cao cả cùng thông điệp hướng đến tương lai, Tô Hoài đã thực sự trở thành "kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường." Nguyễn Minh Châu. Đây chính là điều làm nên dấu ấn của nhà văn cũng như sức sống lâu bền của VCAP. a phủ ngữ văn 12 nhân vật mị ôn thi thpt quốc gia ôn thi thptqg tô hoài văn 12 vợ chồng a phủ đêm đông cứu a phủ Đề bài Phân tích hành động cứu A Phủ của Mị trong đoạn trích sau. Từ đó nhận xét niềm tin vào con người của nhà văn Tô Hoài. Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy. Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ… Trích “Vợ chồng A Phủ” , Truyện Tây Bắc, Tô Hoài Bài làm tham khảo I/ MB Giới thiệu khái quát nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, giới thiệu đoạn 1 dẫn dắt vào vấn đề nghị luậnÝ 2 giới thiệu tác giả – tác phẩmII/ Thân bài giải quyết vấn đề nghị luận1/ Khái quát vào nội dung phân tích2/ Thực hiện yêu cầu chính Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị khi quyết định cứu A Phủa/ Giới thiệu nhân vật Mịb/ Phân tích đoạn tríchLuận điểm 1 Hoàn cảnh xảy ra và tâm trạng Mị trước khi cứu A PhủLuận điểm 2 Tác nhân đánh thức Mị, thôi thúc Mị cứu A PhủLuận điểm 3 Diễn biến tâm lí của Mị khi cắt dây trói cứu A Phủ. 2/ Thực hiện yêu cầu phụ Nhận xét về niềm tin vào con người của nhà văn Tô Hoài. 3/ Đánh giá chungIII/ Kết bài I/ MB Giới thiệu khái quát nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, giới thiệu đoạn trích. VD Mở bài gián tiếp Ý 1 dẫn dắt vào vấn đề nghị luận Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên Đó là những lời thơ tha thiết của Chế Lan Viên khi viết về mảnh đất và con người Tây Bắc. Vùng đất trời mây non nước “sớm sương muối, tối sương mù , trưa hoe hoe nắng, chiều tù mù mây” đã trở thành nơi gửi gắm tâm tình của biết bao trái tim nghệ sĩ. Tô Hoài đã từng thốt lên rằng “đất và người Tây Bắc đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”. Niềm thương, nỗi nhớ ấy đã tạo nên những áng văn chương làm lay động bao trái tim độc giả. Và “VCAP” là một tác phẩm như thế. Một tác phẩm viết về vùng đất Tây Bắc rộng lớn , lấp lánh vẻ đẹp của những con người vùng núi cao, không cam chịu kiếp nô lệ, không cam chịu sự chà đạp của bọn chúa đất phong kiến mà vươn lên để tìm tự do, hạnh phúc cho riêng mình. Sức sống ấy được Tô Hoài truyền tải rõ nét trong hành động cứu A Phủ của Mị vào đêm tình mùa đông trên đất Hồng Ngài. Ý 2 giới thiệu tác giả – tác phẩm Tác giả Nhà văn hóa, phe bình văn học Vương Trí Nhàn từng khẳng định “ Quen biết nhiều, từng trải lòng, Tô Hoài đã trở thành cuốn từ điển sống của nghề văn”. Bức tranh đời sống trong văn Tô Hoài là những trang văn hấp dẫn người đọc bằng vốn kiến thức phong phú về cuộc sống và con người miền núi, đó đã trở thành mảng sáng tác chính, quan trọng và có giá trị của Tô Hoài. Là nhà văn từng gắn bó sâu sắc với đất và người Tây Bắc, Tô Hoài viết rất hay, rất sâu về đề tài này. Và có lẽ, chính mảnh đất ấy với tài năng sẵn có và tấm lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương đã mang đến cho Tô Hoài những thành công vang dội. Tác phẩm “Văn là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến kỳ nam trong rừng trầm hương” và có lẽ những kết tinh mà Tô Hoài thu được sau chuyến đi thực tế tháng 8 năm 1952 lên vùng núi cao Tây Bắc là tập “Truyện Tây Bắc”- một thành quả lao động đẹp trong mùa thu hoạch đầu tiên “trên quê hương văn học mới” của ông. Cho đến tận hôm nay, người đọc vẫn dành nhiều yêu mến cho “VCAP” – một tác phẩm tiêu biểu nhất trong tập truyện này. Truyện viết về Mị – nhân vật trung tâm mà nhà văn Tô Hoài dành nhiều thời gian và tâm huyết để xây dựng, qua đó làm nổi bật sức sống tiềm tàng và khát vọng sống của con người lao động. Vẻ đẹp và niềm khao khát ấy được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ. II/ Thân bài giải quyết vấn đề nghị luận 1/ Khái quát vào nội dung phân tích Trước Tô Hoài, đề tài miền núi là một khoảng trống trong văn học Việt Nam. Viết “VCAP”, Tô Hoài đã tìm kiếm và phát hiện ra một đề tài mới. Đó là bức tranh đời sống của con người miền núi Tây Bắc. Muối lắng ở ô nề, văn lắng ở bề sâu, dưới lớp ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng tạo nên từ cuộc đời Mị , nhà văn đã lấy đó làm đòn bẩy phơi bày bản chất thối nát của xã hội, nhà văn không chỉ lên án, tố cáo bọn phong kiến chúa đất mà còn ngợi ca vẻ đẹp về khát vọng tự do, hạnh phúc cùng sức sống mãnh liệt trong tâm hồn con người lao động qua cuộc đời và số phận của Mị. 2/ Thực hiện yêu cầu chính Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị khi quyết định cứu A Phủ a/ Giới thiệu nhân vật Mị Đọc một tác phẩm , cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn ta là cảm xúc, suy tư của nhà văn về nhân vật. Tô Hoài cho rằng “nhân vật là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Đến với nhân vật Mị, trước hết, bạn đọc ấn tượng nhất chính là hình ảnh cô gái trẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc với nhiều tài năng khiến bao chàng trai mê đắm. Thế nhưng, món nợ truyền kiếp của bố mẹ như một sợi dây oan nghiệt trói Mị vào nhà thống lí. Mị buộc phải làm con dâu gạt nợ. Cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra như một chốn địa ngục trần gian mà Mị là tên tù khổ sai với bản án chung thân. Mị sống như một nô lệ trong nhà thống lí. b/ Phân tích đoạn trích Luận điểm 1 Hoàn cảnh xảy ra và tâm trạng Mị trước khi cứu A Phủ Hoàn cảnh xảy ra hành động Nhà văn Tô Hoài khẳng định “ Cái khổ, cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn, phủ khuất, che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị . Và chỉ cần có một luồng gió mạnh, đủ sức thổi đi lớp tro tàn nguội lạnh ấy thì đốm lửa sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình”. Và cuối cùng thì luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da, cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó, Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét vì tội để hổ vồ mất một con bò. Chính trong đêm đông ấy, khát khao hạnh phúc tạm ngủ yên trong hoàn cảnh nghiệt ngã của Mị bỗng tràn về và bung nở sức sống. Nếu như ở cuộc nổi loạn lần thứ nhất, không khí tưng bừng của đêm tình mùa xuân , đêm say nồng bên bếp lửa hay tiếng sáo gọi bạn đã báo hiệu trước một cuộc thay da đổi thịt trong cuộc sống tăm tối, nhàm chán lặp đi lặp lại của Mị thì ở lần hồi sinh thứ hai, trong đêm mùa đông không hề có sự báo trước bằng bất kì tín hiệu nào . Nó đến thật bất chợt, bất ngờ với người đọc và với chính bản thân Mị. Tâm trạng của Mị trước khi cứu Sau một đêm bị trói đứng, Mị rơi vào cái chết tinh thần nặng nề, đau đớn. Người phụ nữ cô đơn , bất hạnh ấy đã hoàn toàn tách biệt với thế giới xung quanh, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Lửa thông thường để sưởi ấm cho con người khi giá lạnh vì thế nó cũng có tác dụng tương tự với tâm hồn khi trống trải, cô đơn. Mị bám víu lấy bếp lửa không chỉ vì cái lạnh của núi cao mà còn vì sự buốt giá trong lòng mình “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng không biết bao nhiêu lần”. Có hôm, A Sử đi chơi về, nhìn thấy Mị ngồi bên bếp lửa, hắn liền đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp nhưng hôm sau Mị “vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước”. Vậy nên, nếu A Sử có đánh chết thì Mị vẫn lặng thinh, thờ ơ , thản nhiên đến mức lạnh lùng như thế. Bây giờ, đến cái thân mình bị đánh, Mị cũng chẳng thiết nói gì đến mọi thứ xung quanh nên khi tận mắt chứng kiến A Phủ chết dần trong đói rét, đau đớn, Mị vẫn dửng dưng “Nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi”.Với những câu văn trần thuật lạnh lùng, nhà văn đã lột tả hình ảnh một con người vô cảm , hành động theo thói quen chứ không phải một sinh thể đang sống. Cảnh tượng ấy vốn đã rất quen thuộc trong nhà thống lí, “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” . Tâm hồn Mị tưởng như chai sạn trước tất cả những đau thương của người khác. Tâm hồn vốn nhân hậu đã rơi vào vô cảm . Mị chỉ biết ở với ngọn lửa, ngọn lửa cháy sáng nhưng lòng Mị ngụp đầy bóng tối. Luận điểm 2 Tác nhân đánh thức Mị, thôi thúc Mị cứu A Phủ Miêu tả cái chết tinh thần ấy, Tô Hoài đã tự đặt mình vào một thử thách lớn . Làm sao nhà văn lại khiến người đọc tin rằng , từ trạng thái vô cảm kia , Mị có thể thức tỉnh, cắt dây trói của A Phủ , cứu A Phủ và tự cứu chính mình? Làm sao nhà văn có thể tìm được chìa khóa để mở cánh cửa của một cõi lòng cơ hồ đã chết? Và có lẽ, truyện ngắn VCAP đã chết nếu như nó “miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả , nếu như nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó” Bêlinxki . Thế nhưng, Tô Hoài đã chính mình tháo gỡ nút thắt cho câu chuyện bằng chi tiết giọt nước mắt của A Phủ “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ” của A Phủ. Giọt nước mắt ấy đã cứu rỗi tâm hồn Mị. Dòng nước mắt ấy không phải của kẻ hèn nhát hay yếu đuối , đó không phải là giọt nước mắt van xin hay cầu khẩn lòng thương hại của Mị. Mà nó chất chứa nỗi đau đớn, sự uất hận thầm lặng mà dữ dội của một con người tràn đầy sức mạnh , có thừa lòng can đảm mà đành bất lực trước cái chết oan ức, phi lí của A Phủ. Chính dòng nước mắt ấy đã đánh thức khát vọng sống tưởng chừng như đã chết trong lòng Mị. Luận điểm 3 Diễn biến tâm lí của Mị khi cắt dây trói cứu A Phủ. Chi tiết tưởng như không có gì đáng kể này lại là chi tiết quyết định, xoay chuyển số phận của nhân vật Mị. Nó đập mạnh vào trái tim băng giá của Mị – một trái tim dường như chỉ còn chi chít những vết thương tâm hồn để lại, chai sạn và vô cảm. Nó làm cho Mị nhớ ra, xót thương cho chính Mị những đêm ngày trước , “Nhìn thấy tình cảnh như thế , Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được” . Tâm hồn Mị hồi sinh trước hết trong sự tự ý thức, tự thương chính bản thân mình. Đấy cũng là quy luật tâm lí vốn có của con người. Giọt nước mắt của A Phủ đã đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, làm tan đi cái giá băng trong trái tim cơ hồ đã chết của Mị. Từ chỗ thương mình, trong lòng Mị dâng lên nỗi xót xa , thương cảm cho bao kiếp người bị đày đọa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thế thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này ”. Từ nhận thức về thân phận mình, thân phận của người chị dâu bị trói đứng đến chết, Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí và nhận ra “Chúng nó thật ác”. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức, lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc hội ngộ ngược dòng của ý thức, là nhận thức mang tính lí trí chứ không phải cảm tính nữa. Mị độc thoại với chính mình “Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Nhận thức về cái chết cứ trở đi trở lại trong đầu làm Mị sợ . Nhưng ý nghĩ “ta đã là thân đàn bà, nó bắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ còn rũ xương ở đây mà thôi” đã làm cho Mị nhận ra sự phi lí trong số phận của A Phủ. Trong khoảnh khắc trỗi dậy của tình người , người con gái có tâm hồn trong sáng, nhân hậu của ngày xưa đã trở về. Nó thôi thúc Mị đứng lên. Tuy nhiên, những suy nghĩ ấy mới chỉ là dấu hiệu của lòng thương cảm mà chưa hất được bóng ma của nhà thống lí “ Ta đã là thân đàn bà, nó bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ đợi đến ngày rũ xương ở đây”. Tư tưởng thần quyền như một thứ gông xiềng trói buộc con người đến chết. Mị nhớ lại đời mình, lo sợ “một lúc nào đó biết đâu A PhỦ trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho nó , Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy ” . Tự đặt mình trong tình thế xấu nhất là cái chết , lòng Mị không còn sợ nữa. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị hành động. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ chết trên cái cọc ấy, Mị đâu có sợ . Lòng thương người đã lớn hơn tất thảy mọi nỗi sợ hãi. Mị đã cởi trói cho A Phủ. Hành động đó là kết quả tất yếu của tình thương, lòng vị tha , của sự bừng sáng về nhận thức, của lòng ham sống mãnh liệt trong Mị. Vẫn là cái quy luật bất diệt của tình người muôn thuở “Thương người như thể thương thân” nhưng qua ngòi bút tài hoa của Tô Hoài , nó đã mang đậm màu sắc riêng của tính cách – tâm hồn con người Tây Bắc chân chất, mộc mạc mà nồng nàn, sâu sắc. Tô Hoài hiểu rằng “ Nhà văn tồn tại trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái các hoặc số phận dồn đến chân tường , những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đày đọa đến ê chề…” . Tô Hoài đã nâng Mị lên trên hoàn cảnh éo le để trao cho Mị khát khao tự do, khát khao hạnh phúc mãnh liệt. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ đã giúp ta phần nào hình dung kiếp sống nô lệ tủi nhục của Mị, không chỉ bị đày đọa về thể xác mà còn bị giam hãm cả về tinh thần bởi những hủ tục lạc hậu. Mị chính là nạn nhân của chế độ cũ bất công với cường quyền, thần quyền và cả tiền quyền. Khắc họa số phận nhân vật Mị, nhà văn vừa lên án, tố cáo thế lực phong kiến vừa bênh vực cho con người. Qua đó, nhà văn bày tỏ lòng thương cảm sâu sắc đối với cuộc đời người phụ nữ, trân trọng những vẻ đẹp, khát khao tâm hồn của họ. Đó chính là tấm lòng nhân đạo cao cả của tác giả đối với nhân vật của mình. Đánh giá về nghệ thuật “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Tô Hoài đã thành công khi xây dựng nhân vật Mị qua việc miêu tả diễn biến tâm lí đầy phức tạp trong đoạn trích đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ. Ngòi bút Tô Hoài như mổ xẻ, luồn lách tinh vi vào các ngõ ngách để tìm “vẻ đẹp kín đáo ở chỗ không ai ngờ tới” , đem đến cho người bài học trông nhìn và thưởng thức Thạch Lam. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt , cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, miêu tả diễn biến nội tâm biến hóa đa dạng nhưng vẫn nằm trong vòng tình lí của sự sống. Ông đã tuân theo nguyên tắc của phép biện chứng tâm hồn để tái hiện chặng tâm lí đầy phức tạp nhưng vẫn hợp lí, mạch lạc. Văn phong của Tô Hoài trong sáng, biểu cảm, đậm đà màu sắc văn hóa Tây Bắc. Lời văn bay bổng, giàu chất thơ đã mở ra cả một không gian văn hóa Tây Bắc vời vợi, xa xôi mà đầy cuốn hút. 2/ Thực hiện yêu cầu phụ Nhận xét về niềm tin vào con người của nhà văn Tô Hoài. Ở nhân vật Mị, Tô Hoài đã cho bạn đọc thấy niềm tin của ông về bản chất của con người. Vẻ đẹp tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng chỉ còn là lớp tro tàn nguội lạnh của Mị lại là khát khao được sống, được yêu, sức phản kháng mãnh liệt. Từ chấp nhận cam chịu đến phản kháng, từ việc quên đi nỗi đau, không còn ước mơ đến khát khao sống, từ cuộc nổi loạn của Mị, Tô Hoài khẳng định được chân lí muôn đời Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh chống lại nó dù đó là sự bùng lên một cách tự phát như Mị. Sự đấu tranh ấy của Mị là nét độc đáo mà nhà văn Tô Hoài sáng tạo trên nhân vật của mình. Trước năm 1945, các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao chỉ coi con người là nạn nhân của hoàn cảnh . Các nhân vật của họ dù trong hoàn cảnh nào cũng có kết cục bi thảm Chị Dậu bị sưu thuế dồn đến đường cùng, anh Pha bị lừa gạt, ức hiếp đến mất cả vợ con còn bản thân thì bị tù tội, Chí Phèo bị xã hội cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, phải kết liễu đời mình trước cánh cửa trở về cuộc đời lương thiện. Nhưng Tô Hoài, với cái nhìn của một nhà văn cách mạng đã đem ánh sáng của cuộc đời mới chiếu rọi vào các thân phận nô lệ và tìm hướng giải thoát cho cuộc đời của Mị . Đây chính là nét mới mẻ trong tình cảm nhân đạo của Tô Hoài so với các nhà văn hiện thực trước đó. Con đường đến với ánh sáng của tự do xuất phát từ nhu cầu tự giải phóng mình và đó chính là con đường đấu tranh tự phát đến tự giác dưới sự soi đường, dẫn lối của Đảng. 3/ Đánh giá chung Banzac đã từng khẳng định “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại.” Sau năm 1945, đặc biệt là giai đoạn 1945 – 1975, các nhà văn đi sâu khai thác hiện thực cuộc sống , hướng ngòi bút về những con người khổ cực , cam chịu, nhẫn nhục như bao nạn nhân của chế độ cũ vùng lên phản kháng đấu tranh. Mị nói riêng và số phận từ các nhân vật đau khổ, tủi hờn , họ biết hướng về tương lai để thắp lên hi vọng, hướng về ánh sáng tự do. Nguyên nhân của sự chuyển biến này là nhờ ánh sáng soi đường của cách mạng , văn học thời kì này phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng lái con thuyền từ “Thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” . Qua đó, thể hiện cái nhìn lạc quan , niềm tin và cảm hứng nhân đạo của nhà văn được khơi gợi. Đồng thời nó hướng nhà văn theo hướng giải phóng là một quy luật tất yếu. Các nhân vật như anh hùng Núp trong “Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc, Chị Sứ trong “Hòn Đất” của Anh Đức, chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi” là sự tiếp nối tự nhiên của Mị trở thành những anh hùng cách mạng. III/ Kết bài Có nhà phê bình cho rằng “ Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Những tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng có sức sống lâu bền “vượt lên những bờ cõi và giới hạn” . Ta tin rằng “Vợ chồng A Phủ” sẽ mãi là một tác phẩm làm say lòng người đọc bao thế hệ với Núi xòe dáng núi, sông lượn nhánh Mây mỏng cánh ban, gió dẫn đường Ôn thi THPT Quốc gia môn Văn tác phẩm Vợ chồng A PhủPhân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A PhủPhân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài bao gồm dàn ý chi tiết và bài văn mẫu hay, giúp các bạn học sinh hiểu hơn về tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt môn Ngữ văn 12, luyện thi THPT Quốc gia môn Văn hiệu tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị Vợ chồng A Phủ - Tô HoàiPhân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị Vợ chồng A Phủ trong đêm tình mùa xuân ở Hồng NgàiSo sánh nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ với người đàn bà làng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xaDàn ý phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ1. Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ2. Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A PhủGiới thiệu sơ lược về A Phủ một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A PhủCuộc sống đoạ đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn. Thời gian đoạ đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm. Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử dánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu khoôg có bếp lửa ấy, cô sẽ chết người cùng cảnh ngộChính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi... Người kia việc gì phải chết thế?Tình thương lớn hơn cái chếtMị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được sẽ trói thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy... Song có lẽ tình thương ở Mị đã lớn hơn cả sự chết. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A cứu người đến cứu mìnhKhi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy, trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Vì ở đây thì chết không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần Kết luậnQua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đoạ đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn. Phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con người nhà văn mới có được cái nhìn nhân đạo như Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật đó. Hành động cuối cùng của Mị - cởi trói cho A Phủ - có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy luật tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây là "một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam" Trần Đình SửBài văn mẫu Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A PhủMị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" 1953 của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc 1952, Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, "chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này". Lí trí giúp Mị nhận ra "Chúng nó thật độc ác". Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình "Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi". Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ "có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ.... Mị phảng phất nghĩ như vậy". Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến "dòng nước mắt lấp lánh" của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng... Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng "đi ngay" rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín "A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất". Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến...Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" nói riêng và tập "Truyện Tây Bắc" nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Tác phẩm "Truyện Tây Bắc" xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và "Vợ chồng A Phủ" thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô với riêng em, truyện "Vợ chồng A Phủ" giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn "Đời thừa".

phân tích đêm đông cứu a phủ